Vẩy nến không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, thậm chí nó còn làm tăng nguy cơ ung thư cho người bệnh.
Vẩy nến và ung thư có mối quan hệ như thế nào?
Vẩy nến là bệnh tự miễn mạn tính với các triệu chứng đặc trưng như da đỏ rát, sưng viêm và có vẩy trắng bạc trên bề mặt, đôi khi vùng da tổn thương do bệnh có thể bị chảy máu. Người bệnh sẽ thấy ngứa ngáy, đau rát, rất khó chịu. Vẩy nến nếu không được can thiệp sớm và điều trị đúng cách có thể gây nhiều biến chứng cho xương khớp, thận, phổi, thậm chí nó còn có mối liên quan trực tiếp để nguy cơ bị ung thư ở người bệnh.
Một nghiên cứu được trình bày tại cuộc họp thường niên của Học viện da liễu Mỹ tại Miami Beach cho thấy, bệnh vẩy nến có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư, bao gồm ung thư da không ác tính, ung thư tuyến tiền liệt và ung thư hạch bạch huyết (lymphoma).
Hình ảnh bệnh nhân vảy nến
Ung thư hạch là gì?
Lymphoma là thuật ngữ cho một nhóm ung thư có liên quan ảnh hưởng đến máu. Hai dạng ung thư hạch phổ biến nhất là:
- U lymphoma Hodgkin, đôi khi được gọi là bệnh Hodgkin.
- Non-Hodgkin lymphoma.
Ung thư hạch bạch huyết bắt đầu trong hệ thống bạch huyết của cơ thể, đó là một phần của hệ miễn dịch lớn hơn. Hệ thống bạch huyết có ở khắp cơ thể, nghĩa là ung thư có thể bắt đầu ở bất cứ nơi nào và sau đó lan sang các mô hoặc cơ quan khác.
Ung thư hạch Hodgkin (HL) khác với các loại ung thư hạch khác vì các tế bào ung thư rất lớn. Những tế bào này có thể nhân lên, để lại quá ít chỗ cho các tế bào bạch cầu có tác dụng chống lại nhiễm trùng. Một số triệu chứng của HL bao gồm:
- Sốt không rõ nguyên nhân.
- Đổ mồ hôi nhiều, đặc biệt là vào ban đêm.
- Giảm cân không rõ nguyên nhân.
- Mệt mỏi.
- Ho hoặc khó thở trong các hoạt động bình thường.
- Da ngứa.
- Lá lách to.
HL là một trong những loại ung thư có thể chữa được. Các phương pháp điều trị điển hình có thể bao gồm hóa trị, xạ trị hoặc cấy ghép tế bào gốc.
Ung thư hạch không Hodgkin (NHL) cũng là tên cho một nhóm ung thư. Các triệu chứng thường gặp của NHL bao gồm:
- Sốt không rõ nguyên nhân.
- Đổ mồ hôi nhiều, đặc biệt là vào ban đêm.
- Giảm cân không rõ nguyên nhân.
- Mệt mỏi.
- Sưng nhưng không đau trong các hạch bạch huyết của cổ, nách, háng hoặc dạ dày.
- Ngứa da hoặc phát ban.
- Đau ở ngực, dạ dày hoặc xương.
Tùy thuộc vào loại NHL đang có, nhiều bệnh nhân NHL có thể được điều trị hiệu quả bằng cách giữ cho bệnh không phát triển hoặc bằng cách chữa trị hoàn toàn.
Điều trị có thể bao gồm:
- Hóa trị.
- Xạ trị.
- Liệu pháp nhắm vào mục tiêu giữ cho các tế bào ung thư không phát triển.
- Liệu pháp sinh học giúp tăng cường hệ miễn dịch.
Ung thư da không ác tính là gì?
Ung thư da không ác tính (NMSC) đề cập đến hai loại ung thư:
- Ung thư biểu mô tế bào đáy.
- Ung thư biểu mô tế bào vẩy.
Các tế bào cơ bản là các tế bào da nằm ở các mức thấp hơn của da và hầu hết các bệnh ung thư da (80%) phát triển từ các tế bào đáy. Ung thư biểu mô tế bào đáy (BCC) thường được tìm thấy ở đầu hoặc cổ và thường do tiếp xúc quá nhiều với ánh nắng mặt trời. BCC là một căn bệnh ung thư phát triển chậm. Các triệu chứng phổ biến nhất của BCC là:
- Một vết loét hở có chảy máu, dịch rỉ ra kéo dài trong nhiều tuần.
- Một tổn thương da màu đỏ, sau lan rộng không đau nhưng có thể bị ngứa.
- Một vết sưng màu hồng, đỏ hoặc trắng.
- Vùng da sẹo, trắng hoặc vàng.
Ung thư biểu mô tế bào vẩy (SCC) chiếm khoảng 20% ung thư da. Các tế bào vẩy nằm trong da và ung thư phát triển từ những tế bào này thường do tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, nhưng cũng có thể do bỏng hóa chất hoặc tiếp xúc với tia X. SCC cũng có thể được tìm thấy trên môi, miệng, hậu môn hoặc âm đạo. Các triệu chứng của SCC bao gồm:
- Những mụn nhỏ một mụn cóc, có thể có vảy hoặc chảy máu.
- Một vảy đỏ dễ chảy máu.
- Một vết loét mở trong một thời gian dài.
- Da sần sùi.
Điều trị 2 loại ung thư này là một phẫu thuật để loại bỏ khối u và vùng mô xung quanh nó. Tùy thuộc vào kích thước của khối u, phẫu thuật có thể nhỏ và được thực hiện bên ngoài môi trường bệnh viện.
Các nhà nghiên cứu đã truy cập cơ sở dữ liệu bệnh án của 93 triệu người Mỹ. Họ đã xác định được 37.159 người mắc bệnh vẩy nến và đối chiếu với tỷ lệ mắc bệnh ung thư xuất hiện ở 111.473 người.
Trong khoảng thời gian trung bình khoảng hai năm rưỡi, 34,8% người mắc bệnh vẩy nến được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Ngược lại, chỉ có 23,2% những người không có tình trạng da bị ung thư. Điều đó dẫn đến kết quả là mắc bệnh vẩy nến có nguy cơ ung thư cao hơn 56% so với những người không bị bệnh này.
Trong các loại ung thư, những người mắc bệnh vẩy nến có nguy cơ ung thư da cao hơn 75%, nguy cơ ung thư hạch cao hơn 87% và nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt cao hơn 22% so với những người khác.
Một số phương pháp điều trị được sử dụng cho bệnh vẩy nến có thể làm tăng nguy cơ ung thư da, theo Alan Menter, Chủ tịch đơn vị nghiên cứu bệnh vẩy nến tại Viện nghiên cứu Baylor ở Dallas (Mỹ).