Vảy nến là bệnh gì?

Vảy nến là bệnh lý tự miễn trên da, ảnh hưởng đến 2-3% dân số thế giới. Tỷ lệ mắc phải ở nam và nữ tương đương nhau, thường xảy ra trong khoảng từ 15-35 tuổi, hiếm khi xảy ra ở trẻ sơ sinh. Bệnh có biểu hiện thường gặp là bong da, tróc vảy, ngứa ngáy, có khi chảy máu, khiến người mắc cảm thấy bứt rứt, khó chịu. 

Triệu chứng bệnh vảy nến

Việc nhận biết các dấu hiệu của vảy nến không quá khó khăn vì bệnh này rất đặc trưng. Không phải ai bị vảy nến cũng trải qua những triệu chứng giống nhau. Chúng phụ thuộc vào mức độ mắc bệnh và loại vảy nến. Các triệu chứng có thể bao gồm:

- Vảy nến thể mảng (vảy nến mảng bám): Đây là loại vảy nến phổ biến nhất, chiếm khoảng 80% người mắc bệnh. Dấu hiệu bệnh vảy nến loại này là da xuất hiện các mảng tổn thương có đường kính 2 – 20cm, sưng, đỏ, có vảy trắng và ngứa ngáy. Vị trí hay mắc bệnh là vùng tì đè như khuỷu tay, đầu gối, da đầu,…

- Vảy nến thể giọt: Da xuất hiện các chấm tổn thương màu đỏ, có vảy trắng từ 2 – 20mm. Vị trí yêu thích của vảy nến giọt là cánh tay, lưng hoặc bụng. Trẻ nhỏ và thanh thiếu niên hay gặp loại bệnh này.

- Vảy nến đảo ngược: Tổn thương da đỏ tươi, mịn, không có vảy tại các vùng nếp gấp da như nách, háng, da bụng,… Chúng trở nên trầm trọng hơn nếu bị cọ sát hoặc thấm mồ hôi.

- Vảy nến thể mủ (vảy nến mụn mủ): Các vùng da đỏ có nhiều mụn đầu mủ trắng. Chúng có thể xuất hiện ở bàn tay, bàn chân hoặc lan rộng ra toàn thân.

- Vảy nến đỏ da toàn thân: Đây là thể bệnh hiếm gặp nhưng rất nguy hiểm. Da toàn thân của người mắc đỏ rực như tôm luộc và có vảy trắng bao phủ.

- Vảy nến thể móng: Móng tay trở nên đổi màu, sần sùi, thô ráp.

- Vảy nến khớp (viêm khớp vảy nến): Khớp bị sưng, tấy đỏ và đau đớn.

benh-vay-nen-anh-huong-den-da.jpg

Triệu chứng bệnh vảy nến 

Nguyên nhân gây ra bệnh vảy nến

Nguyên nhân gây vảy nến cho đến nay vẫn chưa được tìm ra chính xác. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, bệnh có liên quan đến sự suy yếu của hệ miễn dịch và các yếu tố nguy cơ khác, bao gồm:

- Hệ thống miễn dịch giúp bảo vệ cơ thể khỏi những thành phần ngoại lai xâm nhập như vi khuẩn, virus. Tuy nhiên, khi bị bệnh vảy nến, hệ thống miễn dịch hoạt động quá mức, tạo ra tình trạng viêm bên trong cơ thể. Tế bào da được sản xuất nhiều hơn bình thường và bị đẩy lên bề mặt da quá nhanh. Thông thường, phải mất khoảng một tháng để các tế bào da sinh sản và chết đi nhưng khi bị vảy nến, quá trình trên chỉ diễn ra từ 3 – 4 ngày. Các tế bào da tích tụ trên bề mặt da tạo thành những mảng tổn thương đỏ và có vảy.

- Yếu tố di truyền: Nếu bạn bị bệnh vảy nến, có thể ai đó trong gia đình bạn cũng từng mắc bệnh này. Một trong 3 người bị bệnh vảy nến báo cáo rằng, họ có người thân mắc bệnh. Các nhà nghiên cứu chỉ ra, có tới 10% dân số có thể thừa hưởng một hoặc nhiều gen bệnh vảy nến, nhưng chỉ có 2 - 3% người có gen thực sự phát triển bệnh.

- Các yếu tố kích hoạt từ môi trường: Một số yếu tố môi trường có thể kích hoạt các gen bệnh vảy nến. Những yếu tố kích hoạt môi trường này khác nhau ở mỗi người và những gì gây ra bệnh vảy nến ở một người có thể không phải là nguyên nhân gây bệnh ở người khác. Các yếu tố này bao gồm: Stress kéo dài; Chấn thương da (vết cắt, vết trầy xước, vết côn trùng cắn, cháy nắng nghiêm trọng); Nhiễm trùng (như viêm họng liên cầu khuẩn); Sử dụng một số loại thuốc (bao gồm lithium, thuốc chống sốt rét, ; Uống rượu, bia; Hút thuốc lá,…

ruou-bia-va-benh-vay-nen.jpg

Sử dụng bia rượu cũng là nguyên nhân gây bệnh vảy nến 

Bệnh vảy nến có chữa được không?

Đến nay, vảy nến chưa có thuốc chữa khỏi hoàn toàn. Đây là bệnh mạn tính, tái phát nhiều lần trong đời. Tuy nhiên, người mắc có thể sử dụng thuốc, áp dụng quang hóa trị liệu hoặc thay đổi lối sống để kiểm soát, cải thiện các triệu chứng bệnh và ngăn ngừa vảy nến tái phát.

Các phương pháp điều trị vảy nến hiện nay

Người mắc có thể áp dụng nhiều phương pháp điều trị vảy nến để giảm triệu chứng bệnh hiệu quả. Các phương pháp bao gồm:

Sử dụng thuốc

Hiện nay, việc sử dụng loại thuốc điều trị vảy nến nào được các chuyên gia chỉ định phụ thuộc vào mức độ tổn thương và vị trí mắc bệnh. 2 loại thuốc được dùng nhiều là thuốc điều trị tại chỗ và thuốc điều trị toàn thân:

1. Điều trị tại chỗ

Đây là phương pháp dùng thuốc hoặc kem bôi ngoài da và thường được áp dụng khi bị vảy nến nhẹ đến trung bình. Thuốc bôi có tác dụng cải thiện triệu chứng đỏ, ngứa và giúp làm sạch vảy da. Tuy hiệu quả nhưng một số thuốc có tác dụng phụ nguy hiểm như gây teo da, giãn mạch, loãng xương nếu dùng quá liều hoặc dùng trong thời gian dài.

2. Điều trị toàn thân

Đây là phương pháp sử dụng thuốc uống hoặc tiêm và được chỉ định cho các trường hợp vảy nến trung bình đến nặng. Đây là các thuốc chống viêm, ức chế miễn dịch với tác động mạnh nên có tác dụng giảm triệu chứng bệnh vảy nến rất nhanh. Tuy nhiên, thuốc có nhiều tác dụng phụ nguy hiểm như gây suy gan, xơ gan, suy thận,… Do đó, người dùng cần thận trọng.

Quang hóa trị liệu vảy nến

Quang hóa trị liệu là phương pháp sử dụng ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng nhân tạo tia UV để cải thiện các triệu chứng bệnh vảy nến. Bạn có thể tắm nắng dưới ánh sáng nhẹ nhàng lúc bình minh, nhưng nên nhớ, chỉ nên tắm tối đa 30 phút, không tắm nắng trong khoảng thời gian 10h – 15h để tránh tia cực tím gây ung thư da. Phương pháp này có tác dụng loại bỏ vảy da, giảm sưng viêm khá hiệu quả. Tuy nhiên, phương pháp này cũng làm tăng nguy cơ bị ung thư da, bỏng da nếu áp dụng trong thời gian dài. Ngoài ra, chi phí quang hóa trị liệu khá tốn kém.

Thay đổi lối sống 

Ngoài áp dụng các phương pháp điều trị được chuyên gia y tế chỉ định, bạn cũng cần loại bỏ các yếu tố nguy cơ gây bệnh vảy nến và tích cực thay đổi lối sống, cụ thể:

- Tăng cường vận động, tập thể dục thể thao ít nhất 30 phút/ngày, ít nhất 5 ngày/tuần.

- Hạn chế các thực phẩm gây viêm như thịt đỏ (thịt bò, thịt ngựa,…); Sữa và các sản phẩm từ sữa; Tránh thực phẩm chiên rán; Bổ sung các loại rau xanh, hoa quả tươi, cá biển (cá hồi, cá trích), các loại hạt,… vào chế độ ăn uống hàng ngày.

- Hạn chế sử dụng rượu, bia, thuốc lá.

- Quản lý tốt tình trạng stress, căng thẳng của bản thân.

- Bảo vệ da dưới ánh nắng mặt trời.

- Không dùng thuốc khi chưa có chỉ định của chuyên gia.