Bệnh vẩy nến  một trong nhữn bệnh da phổ biến nhất hiện nay. Chiếm khoảng 10% trong tổng số bệnh nhân khám da liễu tại Việt nam. Theo thống kê, tỷ lệ bệnh vẩy nến khác nhau tùy từng vùng, từng châu lục, song nó dao động trong khoảng 1-3% dân số. Yếu tố gia đình có vai trò trong sinh bệnh học của bệnh vẩy nến và khoảng 1/3 bệnh nhân có tiền sử gia đình rõ rệt.

Về nguyên nhân chính xác của bệnh vẩy nên chưa rõ ràng nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy có yếu tố di truyền và môi trường ảnh hưởng đến tiến triển của bệnh vẩy nến.

Yếu tố di truyề có vai trò trong sinh bệnh học của bệnh vẩy nến và khoảng 1/3 bệnh nhân có tiền sử gia đình rõ rệt. Một cặp ngiên cứu gợi ý rằng kiểu di truyền là đa yếu tố và những yếu tố môi trường có thể là cần thiết để bộc lộ lâm sàng tiềm ẩn. Những nghiên cứu gần đây trên hẹ kháng nguyên bạch cầu người (HLA) chỉ ra sự kết hợp giữa bệnh vẩy nến và cả HLA –CW6 và HLA_DR7. Những bệnh nhân bị vẩy nến thể mụn mủ tỷ lệ kháng nguyên HLA – B27 cao hơn bình thường. Nghiên cứu trên 65 bệnh nhân vẩy nến trong 8 gia đình cho thấy một số gen mã hóa cho sự tăng nhạy cảm với bệnh vẩy nến.

Ngoài vai trò của yếu tố di truyền vẩy nến còn liên quan tới nhiều bệnh nguyên như yếu tố miễn dịch, hiện tượng Koebner, nhiễm trùng, tia cực tím, thuốc lá, bia rượu, sress. Và cho đến nên thì căn nguyên gây ra bệnh vẩy nên chưa  rõ ràng. Cho đến thời điểm hiện tại chưa có phương pháp điều trị khỏi hoàn toàn căn bệnh này. Các biện pháp chủ yếu là điều trị các triệu chứng và kéo dài thời gian tái phát. Hiện nay do các thuốc sử dụng trong điều trị vẩy nến do dùng lâu dài gây nhiều độc hại, việc lựa chọn những sản phẩm an toàn là rất cần thiết.​​​​​​​